1. Tên điểm: Đền Tiên La
2. Địa chỉ: Thôn Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình
3. Vị trí địa lý: - Tọa độ: 20° 37' 26'' /106° 13’'42''
Toàn cảnh bên ngoài Đền Tiên La
Toàn cảnh bên ngoài Đền Tiên La
4. Đặc điểm: Đền Tiên La được công nhận di tích quốc gia theo quyết định số
235/VH/QĐ ngày 12/11/1986. Ngôi đền thờ Bát Nạn Tướng Quân (Tướng quân
phá nạn cho dân - có nơi gọi là Bát Nàn hay Bát Não) Vũ Thị Thục sinh
năm 17, mất năm 43, một nữ danh tướng trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng có
công đánh Tô Định, được phong: “Đông Nhung Đại Tướng Quân” có từ gần
hai ngàn năm nay. Toàn bộ ngôi đền làm theo cấu trúc “Tiền
nhất – Hậu đinh” đúng cấu trúc, theo đúng dáng vóc kiểu cổ từ cột, kèo
đến đao mái uốn cong và mang dáng hình con rồng bay lên hoặc Lưỡng Long
Chầu Nguyệt, có ba tòa điện chính là: Đại Bái (Tiền tế), Trung tế và
Hậu điện hay còn gọi là Hậu Cung. Qua cổng (Tam quan ngoại), vào sân
đền là Tam quan nội và hai bên có Lầu Cô, Lầu Cậu.
Bước lên tòa Tiền Tế gồm năm gian, du khách sẽ bắt gặp những bức đại tự
với các câu đối cổ ca ngợi triều Trưng Vương và phẩm hạnh, tài sắc của
nữ tướng Bát Nàn. Tòa điện Bái đường và thượng điện của đền được kiến
trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết, nội thất được chạm trổ long- lân- quy-
phượng xen lẫn với thông- cúc- trúc- mai rất tinh xảo.
Tòa điện Trung tế là công trình kiến trúc đặc sắc được xây dựng theo
kiểu phương đình, kiến trúc theo lối “Chồng diêm cố các”. Điều đặc biệt
là toàn bộ vật liệu xây dựng ở tòa bái đường đều được làm bằng đá như
hệ thống cột đá, xà đá, kèo đá…tòa điện được xây bằng mười sáu cột đá
lớn, tám xà đá và tám kèo đá. Hệ thống cột, kèo, xà đá đều được chạm
khắc rất công phu và kỹ xảo. Bốn cột cái chạm tứ linh, mười hai cột
quân chạm long vân, tám xà chạm thông- cúc- trúc- mai xen lẫn long- ly-
quy- phượng.
Tòa cuối của đền là Hậu cung gồm ba gian nằm sâu bên trong, tương
truyền đây là nơi có mộ của Bà. Trên nóc hiện còn bức đại tự rất quý đề
bốn chữ: “Anh Linh Vạn Cổ” bằng chữ Hán. Gian giữa Hậu cung đặt một ban
thờ, trên có ngai và tượng Bát Nạn tướng quân Vũ Thị Thục, xung quanh
thờ các tướng sỹ và quân lính của bà. Gian bên tráI thờ thân phụ, gian
bên phải thờ thân mẫu của Bà. Các ngai thờ và tượng thờ đều có từ lâu
đời, theo các nhà nghiên cứu về chữ và cách chạm khắc thì có từ thời
Tiền Lê, một số thuộc thời Trần và Hậu Lê. Ngoài ra, đền còn lưu giữ
được nhiều đồ tế khí có giá trị thẩm mỹ niên đại từ thời Lê, các tài
liệu như thần tích và sắc phong thần từ thời Lê đến thời Nguyễn,
các bia đá, minh chuông…
Bát Nàn công chúa (Có sách chép là Bát Nạn hay Bát Não) theo các truyền
thuyết và thần tích cũ của làng Tiên La, Hưng Hà, Thái Bình, thần tích
Đền Rẫy, Đền Buộm xã Tân Tiến – Hưng hà - Thái Bình cùng thần tích thờ
thần miếu ở xã Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, (Thần tích do danh thần thời
Hậu Lê là Hàn Lâm đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn) nay thuộc Vĩnh
Phúc. Thục Nương sinh ra tại quê ngoại vùng Hương Đa Cương (Nay thuộc
xã Tân Tiến – Hưng Hà - Thái Bình), lớn lên tại quê cha (Phượng Lâu –
Vĩnh Phúc), là người con gái xinh đẹp đoan trang có lòng yêu nước,
thương nòi lại ưa binh đao, võ nghệ, cha là Võ Công Chất và mẹ là Hoàng
Thị Mầu. Thân phụ là Hào trưởng ở Phượng Lâu nên khi bà chào đời cha mẹ
đặt tên là Thục. Về sau bà nổi tiếng tài sắc, nên tục gọi là Thục
Nương. Cha mẹ bà có đính hôn ước bà với Phạm Danh Hương (Có sách chép
là vị Lạc hầu Trương Quán) quê ở Đức Bác (tức Liệp Trang – huyện Lập
Thạch), vợ chồng bà đều có lòng yêu nước, ngầm lo việc cứu nước giúp
dân.
Bấy giờ, nước ta đang bị nhà Hán cai trị, nước ta gồm các Quận Giao
Chỉ, Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Với âm mưu đồng hóa nên nhà
Hán cho Thái Thú Tô Định cai quản và lập hệ thống Lạc hầu, hào mục từ
trung ương xuống các địa phương, mua chuộc các tên gian tham làm tay
sai cho chúng. Nơi Bà sinh sống có tên hào mục là Trần, vì căm tức
không cưới được Thục Nương, nên đã ngầm thông mưu với Thái Thú Tô Định,
vu cho Phạm Danh Hương làm phản. Năm Kỷ Hợi 39, khi Đặng Thi Sách
(chồng Bà Trưng Trắc) bị giết ở Châu Diên thì chồng bà cũng bị giết ở
Diên Hà. Khi đó, quân Tô Định vây chặt dinh trại, chồng bà bị hại, nửa
đêm bà cầm song đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn
thân. Từ ấy, nặng nợ nước thù nhà bà quyết chí báo phục, đêm ngày chiêu
tập hào kiệt dựng cờ khởi nghĩa.
Tháng ba năm Canh Tý (năm 40 sau Công nguyên). Hai Bà Trưng dựng cờ
khởi nghĩa, Bà theo về giúp và cùng nữ tướng Lê Chân (quê Hải Phòng);
nữ tướng Xuân Nương (quê Tam Nông-Phú Thọ) thống lãnh quân tiên phong.
Nghĩa quân của Thục Nương đã sát cánh với các cánh quân khác, tả xung
hữu đột chiến thắng giòn giã. Năm 41, đất nước hoàn toàn giải phóng.
Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, đất nước
vang tiếng khải hoàn ca. Trong đó có công lao to lớn của bà. Trưng
Vương phong Bà làm Bát Nạn đại tướng quân, Trinh Thục Công Chúa, Uy
viễn đại tướng quân, Đông Nhung đại tướng quân. Bà từ chối tước lộc,
chỉ xin đem đầu giặc tế chồng. Tế xong, bà cởi bỏ nhung trang trở về
chùa làng Tiên La, lập trang ấp sinh sống.
Để phục thù, năm Quý Mão 43, nhà Hán sai Phục Ba Mã Viện, một viên
tướng già lão luyện và gian ngoan trong chiến trận, đem 20 vạn quân
sang phục thù, Bà đem đội nghĩa binh của mình đến chi viện cùng nghĩa
quân của Hai Bà Trưng anh dũng chiến đấu, nhưng vì lực lượng yếu
hơn, Hai Bà Trưng đã anh dũng tuẫn tiết hy sinh trên dòng sông
Hát trong ngày 6 tháng 2. Còn cánh quân của Đông Nhung đại tướng quân,
vì lực lượng quân địch đông và hung bạo, bọn giặc lại gian ngoan, thấy
đội nữ binh của bà, chúng bảo nhau dùng kế khoả thân bao vây để bắt
sống bà nộp cho chủ tướng giặc. Bà cùng một số nghĩa binh mở đường máu
thoát vây chạy về trú ngụ tại chùa Tiên La tính kế lâu dài. Song bọn
giặc đã đuổi tới. Bà chiến đấu anh dũng, rồi rút gươm tự vẫn, không
chịu để quân giặc làm nhục. Hôm đó là ngày 16/3 năm Quý Mão. Theo
truyền thuyết kể lại: Khi bà tuẫn tiết, bọn giặc đã lập trại trông xác
bà bên gốc quế để hôm sau chúng treo xác bà để thị uy, nhưng chỉ 1 đêm
đến sáng hôm sau bên cạnh gốc cây quế có 1 đống đất do mối xông phủ hết
xác bà. Khi quân giặc quay lại tìm thấy đống đất mối xông như hình
người, biết bà linh hiển, chúng không dám đụng chạm tới xác bà nữa. Từ
đó người dân Tiên La gom góp vật liệu xây dựng ngôi đền nhỏ thờ Bà và
hương khói, hàng ngàn năm nay không bao giờ tắt và tổ chức mở hội để
ghi nhớ công đức của Bà vẫn theo nếp: mở cổng đền vào ngày mồng 10 và 3
ngày hội chính là 15, 16, 17 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Vì khi cầm binh khí đuổi giặc, từ cửa sông Đáy về ngã ba sông Nông, Bà
thường cai quản 18 cửa ngàn, nên tục gọi Bà là chúa Thượng ngàn. Và
ngôi chùa Bà ở tu khi xưa, sách chép là chùa Nam Liên ở trên núi, nên
sách cũ cũng có chép Bà là sư nữ Nam Liên.
Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân trước đây
được tổ chức vào 15 đến 17 tháng ba âm lịch hàng năm. Ngày nay để phục
vụ đông đảo du khách về dự, Ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ đầu tháng
ba, chính hội tổ chức vào ngày 17 âm lịch, trùng ngày hy sinh của Bà
(ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão).
Trong phần hội có các trò chơi dân gian như chọi gà, đấu vật, múa rồng,
múa sư tử… Đặc biệt là phần rước kiệu, rước nước và một số trò chơi dân
gian khác như đánh đáo, thổi sáo trúc… đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài
ra, vào các dịp lễ hội còn có nhiều đoàn văn hóa nghệ thuật của tỉnh
Thái Bình và các tỉnh lân cận về biểu diễn các tiếp mục văn hóa đặc sắc
như các vở chèo: Quan âm Thị Kính; Lưu Bình- Dương Lễ; Phạm Trân- Cúc
Hoa… Nguồn tài liệu tham khảo:
http://ditichlichsuvanhoa.com/dttc/DEN-TIEN-LA-a690.html 5. Mối liên kết với nền địa lý
Đền tọa lạc giữa thôn Tiên La (trước đây là gò Kim Quy), xã Đoan Hùng -
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình trên diện tích khoảng 6000 m2. Mặt trước
đền hướng ra con sông Tiên Hưng gần ngã ba đổ ra sông Luộc. Trải qua
nhiều lần tu bổ, đến nay đền có quy mô lớn và đẹp, bao gồm nhiều công
trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế, thượng điện và
hệ thống sân đền, giếng ngọc…. Toàn bộ ngôi đền làm theo cấu trúc “Tiền
nhất – Hậu đinh” đúng cấu trúc, theo đúng dáng vóc kiểu cổ từ cột, kèo
đến đao mái uốn cong và mang dáng hình con rồng bay. 6. Chỉ dẫn đường đi + Hà Nội – Thái Bình (80 km):
Xe lưu thông theo hướng cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ, đi khoảng 38 km đến
vòng xuyến chuyển hướng đi vào QL38B. Đi khoảng 5km (qua Bưu điện Duy
Tiên), rẽ trái vào QL38B. Đi tiếp theo QL38B khoảng 8 km (qua chợ Hòa
Mạc, Cầu Yên Lệnhthì rẽ phải vào đường Nguyễn Văn Linh/QL39A. Đi tiếp
đến vòng xuyến đi vào lối thứ 3 ra QL39A. Tiếp tục đi theo QL39A khoảng
11 km (qua cầu Triều Dương, Công ty cổ phần may xuất khẩu Việt Hànrẽ
trái vào Đường Mới. Đi tiếp 3 km thì rẽ trái, đi thêm 3,5 km nữa rẽ
trái, đi tiếp 800m rẽ phải. Đi tiếp gần 2 km rẽ trái vào Cầu Tiên La.
Qua chân cầu Tiên La rẽ trái, đi thêm 200 nữa đến Đền Tiên La (xã Đoan Hùng, huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
+ Hải Dương – Thái Bình (50 km):
Xe lưu thông theo hướng đường Lê Thanh Nghị - Trường Chinh – Ngô Quyền,
qua cầu Phú Tảo, rẽ phải vào TL39B --> Đi thẳng đến vòng xuyến, tiếp
tục đi thẳng vào QL38B, qua cầu Tràng Thưa --> Tiếp tục đi thẳng qua
tiệm vàng Hùng Thế, đến ngã tư rẽ trái về TL392QL/TL20A --> Đi
khoảng 2,5km, rẽ phải vào TL 396B --> Qua Cầu Di Linh --> Đi theo
TL 396B đến Cầu Hiệp, đi thêm 800m thì rẽ trái vào TL224 --> Rẽ phải
vào phố Bến Hiệp, đi đến điểm cuối xe bus 04 rẽ trái vào Đê --> Đi
tiếp theo Đê khoảng 12,5 km rẽ trái là đến Đền Tiên La (xã Đoan Hùng, huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
+ Hải Phòng – Thái Bình (100 km):
Lưu thông về hướng đường Lạch Tray – Phạm Văn Đồng/TL353--> Qua Cầu
Rào (sông Lạch Tray--> Tiếp tục lưu thông theo đường Phạm Văn
Đồng/TL353 --> Đi qua trạm thu phí Dương Kinh --> QL 5B/ĐCT04
--> Qua cầu Thái Bình (sông Thái Bình--> Đi tiếp theo QL5B qua
cầu Tứ Xuyên --> Qua cầu vượt Gia Lộc, đi hướng về trạm thu phí Gia
Lộc, sao đó rẽ trái vào QL38B. Đi tiếp theo QL38B, qua cầu Tràng Thưa
--> Tiếp tục đi thẳng qua tiệm vàng Hùng Thế, đến ngã tư rẽ trái về
TL392QL/TL20A --> Đi khoảng 2,5km, rẽ phải vào TL 396B --> Qua
Cầu Di Linh --> Đi theo TL 396B đến Cầu Hiệp, đi thêm 800m thì rẽ
trái vào TL224 --> Rẽ phải vào phố Bến Hiệp, đi đến điểm cuối xe bus
04 rẽ trái vào Đê --> Đi tiếp theo Đê khoảng 12,5 km rẽ trái là đến Đền Tiên La (xã Đoan Hùng, huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).