1. Tên điểm: Chùa Keo
2. Địa chỉ: xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
3. Vị trí địa lý: - Tọa độ: 20° 21' 40'' /106° 17'49''
Chùa Keo
Phong cảnh bên ngoài chùa Keo
4. Đặc điểm: Chùa Keo có tên chữ là Thần Quang Tự, được xây dựng từ năm 1630
đến năm 1632 theo phong cách kiến trúc thời Lê, nhờ sự vận động của bà
Lại Thị Ngọc, vợ Tuần Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng, và Đông Cung Vương phi
Trịnh Thị Ngọc Thọ.
Nhưng lịch sử của ngôi chùa thì có bề dày đến hơn chín thế kỷ. Theo
sách Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục, năm 1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm
Quang tại làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng.
Sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là
Thần Quang Tự. Theo thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa và
đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa.
Dân làng Keo phải bỏ quê cha đất tổ ra đi: một nửa dời về đông nam hữu
ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Hành Thiện (nay thuộc tỉnh
Nam Định); một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông
Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Thái Bình này.
Chùa có quy mô kiến trúc rộng lớn trên một khu đất khoảng 58.000m².
Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 công trình gồm 128 gian xây
dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc". Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp
cao 25 m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan
ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa chạm rồng chầu (thế kỷ 16).
Sau đó là chùa thờ Phật, gồm ba ngôi nhà nối vào nhau. Trong cùng là
tòa gác chuông, nhà tổ và khu tăng xá.
Gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo, tiêu
biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời hậu Lê. Được dựng trên một nền gạch
xây vuông vắn, gác chuông cao 11,04 m gồm 3 tầng mái, kết cấu bằng
những con sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết
với nhau bằng mộng ngậm, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong
dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Tầng một treo khánh đá 1,20 m và chuông
đồng cao 1,30 m, đường kính 1m đúc vào thời Lê Hy Tông (1686); hai tầng
trên treo chuông nhỏ cao 0,62m, đường kính 0,69 m đúc vào năm 1796.
Đứng soi mình xuống hồ nước phẳng lặng giữa một không gian thoáng đãng,
chùa Keo không chỉ lưu giữ nhiều di vật quý giá mà còn chứa đựng những
điều huyền bí gắn liền với cuộc đời Thiền sư Không Lộ. Theo sách Trùng
san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục tập yếu, Thiền sư
Không Lộ vốn họ Dương, sinh ra trong một gia đình ngư phủ, xuất gia
theo Thiền sư Lôi Hà Trạch.
Tương truyền rằng từ khi đắc đạo, Thiền sư Không Lộ có khả năng bay
trên không, đi trên mặt nước và thuần phục được rắn, hổ. Truyền thuyết
còn kể rằng trước khi viên tịch, Ngài hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy
áo đắp lên và khúc gỗ biến thành tượng. Thánh tượng này nay còn lưu giữ
trong hậu cung quanh năm khóa kín cửa.
Cứ 12 năm một lần, làng Keo lại cử ra một người hội chủ và bốn viên
chấp sự để làm lễ trang hoàng tượng Thánh. Những người này phải ăn
chay, mặc quần áo mới, họ rước thánh tượng từ cấm cung ra rồi dùng nước
dừa pha tinh bưởi để tắm và tô son lại cho tượng Thánh. Công việc này
phải làm theo một nghi thức được quy định rất nghiêm ngặt, những người
chấp sự phải tuyệt đối giữ kín những gì đã thấy trong khi trang hoàng
tượng Thánh. Đến thăm chùa, khách có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá
tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như một bộ tràng hạt bằng
ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà người ta kể
lại rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ
làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.
Tam quan chùa có đủ cả 3 gian gồm không quán, giả quán và trung quán.
Đây là công trình kiến trúc đơn lẻ đậm vẻ kiến trúc của thế kỷ 17. Điều
đặc biệt là đôi cánh cửa, chiều cao 2m, chiều rộng 1,3m khi khép lại
tạo ra một mạng chạm hoàn thiện, giữa là mặt nguyệt, hai bên là 2 con
rồng chầu, thân rồng uốn nhiều lần, đầu tóc rất dữ dội. Đao rồng dựng
lên như biển lửa, chúc xuống như rừng giáo mác. Phía sau là 2 rồng con
núp sau rồng mẹ, dáng vẻ rất thảnh thơi. Về mặt kiến trúc, trên một mặt
chạm gỗ đục sâu không quá 3cm, nghệ nhân rất thành công khi áp dụng
luật tối, sáng, xa gần dù không dùng tới một chút màu nào cả nhưng khi
ta nhìn thấy có tối, có sáng, có xa, có gần với những đường chạm rất
sắc sảo, nét khắc rất tinh vi. Nếu đôi cánh cửa ở Chùa Phổ Minh tiêu
biểu cho kiến trúc đời Trần thì đôi cánh cửa chùa Keo tiêu biểu cho
kiến trúc đời Lê".
Đi tiếp vào chùa, gặp ở hai bên 24 gian hành lang là nơi quý khách sắm
lễ vào Chùa lễ Phật và lễ Thánh. Điều quý nhất ở khu tam bảo là pho
tượng Quan Âm Nam Hải có niên đại 450 năm. Toàn bộ khu thờ Phật của
Chùa Keo có gần 100 pho tượng. Bùi Anh Diêm giới thiệu: "Pho tượng
Tuyết Sơn hay còn gọi là Thích Ca Mâu Ni này có tính chất nhân trắc học
tức pho tượng đã đáp ứng được sự tích. Từ xương sườn, xương quai xanh,
bánh chè, đầu gối, mỏ ác đều thể hiện tài đức của ông. Môi mỏng thể
hiện tài thuyết pháp, mắt thể hiện sự nhìn xa trông rộng và đầu thể
hiện tư duy lớn. Pho tượng này có niên đại khoảng 400 năm".
Sau khu thờ Phật là khu thờ thánh. Hội chùa Keo diễn ra vào ngày 4 Tết
âm lịch và từ 13 đến 15-9 âm lịch. Tại hội chùa Keo, sau khi đã có
những nghi lễ như mọi hội chùa khác, thì diễn ra trò chơi kéo nứa lấy
lửa, nấu xôi, nấu chè và nấu cơm chay để mang cúng Thánh. Phía ngoài có
một giếng nước. Thành giếng xếp bằng 36 cối đá thủng đã dùng giã gạo
nuôi thợ xây chùa.
Phía trong cùng là gác chuông chùa Keo. Đối với những người Thái Bình
xa quê hương thì đây là biểu tượng của quê hương Thái Bình. Chiều cao
gác chuông là 12,7m, chịu lực trên 4 cột chính, mỗi cột cao 5m, đường
kính 70cm và 3 tầng kiến trúc chồng lên nhau song không có sự che
khuất. Phía trên cùng là quả chuông nặng 3 tạ, tầng thứ hai có quả
chuông 8 tạ và tầng cuối cùng, quả chuông nặng 1,3 tấn.
Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc
kiến trúc độc đáo của mình. Gác chuông với bộ mái kết cấu gần 100 đàn
đầu voi là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam. Bộ cánh cửa
chạm rồng là bộ cửa độc đáo của cả nước. Chùa còn bảo lưu được hàng
trăm tượng Pháp và đò tế thời Lê. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng
nghệ thuật đầu thế kỷ XVII, với nhiều kiệt tác đặc sắc như Thượng sư
Không Lộ bằng gỗ trầm, tượng Quan Âm từ thời Mạc, tượng Cửu Long, tượng
La Hán thời Lê.
Chùa Keo là một công trình kiến trúc quy mô, phức hợp nhiều khối kiến
trúc đa dạng nhất trong tất cả các kiến trúc Phật giáo ở Đồng bằng Bắc
bộ.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Trụ, người thiết kế và chỉ đạo thi công chùa đã
khéo lựa chọn cho chùa có một vị trí xây dựng vừa đẹp, vừa đáp ứng mục
đích chính của chốn thiền. Chùa xây dựng trên một vùng đất rộng 100.000
mét vuông, dài từ chân đê đến con ngòi của thôn Bồng Tiên, gồm nhiều
cụm kiến trúc xếp theo một trục dài cao thấp khác nhau, kiến tạo nhiều
lớp nhiều tầng, ẩn hiện dưới những lùm cây, gợi cho khách tham quan,
những nhà văn, nhà thơ, nhà nghệ thuật nhiều cảm nhận theo những khoảnh
khắc khác của thời gian như: khi thì mái ngói dào lên cơn sóng nắng,
khi thì gác chuông chìm xuống ráng chiều tà. Hay trong giây phút tĩnh
lặng tâm hồn, một tiếng chuông buông và phút chốc trời đất bốn phương
cũng giao hòa. Nếu không phải bị cuốn hút bởi những điều đó thì hãy
theo bước chân của những người hành hương vào chùa qua Tam quan ngoài,
Tam quan trong, đến gần một hồ rộng để tầm mắt hướng từ cao nhìn xuống
sẽ dần dần phát hiện được cái lẽ đời Việt Nam ẩn dấu, hình thành một
chuẩn mức thẩm mỹ.
Mọi người đến với chùa không có một chút gì ngăn cách về tinh thần, bắt
đầu từ thể thức và mực thước của kiến trúc gợi nên vẻ đẹp uyên nhã,
khơi dậy những tình cảm vuông tròn như trong nếp nghĩ và sự cầu mong
của người nông dân Việt Nam là luôn luôn được mưa thuận gió hòa, là
cuộc sống sinh sôi nảy nở mẹ tròn con vuông, là sự sinh tồn lấy lẽ bao
dung và đùm bọc làm thước đo chân lý.
khi đến chùa ta thấy một không gian khép kín nhưng không hề bị chật
hẹp, tù túng mà bao trùm một vẻ đẹp vươn tỏa bao la. Bí quyết để giải
quyết điều này là ở chỗ kiến trúc chùa Keo đã mạnh dạn sử dụng mặt nước
rộng ở cả 3 mặt trước và hai bên để thế chùa vừa mở rộng, vừa vươn cao
trong ảo giác để hình bóng dáng chùa lẩn dần vào chiều sâu mặt nước,
khiến cái ranh giới cụ thể nhằm đáp ứng tinh thần kín như văn bia Thần
Quang Tự đã ghi: "Ngăn che khách trụ ghé nhòm" được xóa mờ với cảm giác
bao la trong tâm tưởng khi muốn vươn tới chốn thiền. Ngoài cái sâu lắng
trong tình cảm thẩm mỹ thì thực tại mặt nước soi bóng những hàng cây cổ
thụ, bên nếp chùa có dáng thuyền rồng có những đường cong bờ nóc, như
mãi lưu lại những vầng trăng khuyết là một thực tại cảnh quan như một
nhà thơ về thăm chùa đã viết: "Rõ là cảnh đấy, người đây Chùa Keo ơi
nước non nào nên duyên".
Cũng giống như các chùa làng khác, bên ngoài là chữ Quốc, bao bọc bởi
hai dãy hành lang bên tả, bên hữu gồm 42 gian, phía nước là hai cổng
vào tòa nhà Hộ, phía sau là nhà thờ Tổ và gác chuông. Bên trong là chữ
Công, nhưng là chữ Công kép vì chùa thờ tiền Phật hậu Thánh. Cụm kiến
trúc chữ Công phía trước là nơi thờ Phật còn cụm kiến trúc chữ Công
phía sau là thờ Thánh Không Lộ. Không Lộ là người đã đi tu và khởi đầu
xây dựng chùa từ thời Lý thế kỷ thứ 11. Giữa hai cụm kiến trúc thờ
Phật, thờ Thánh có tòa Giá Roi. Tòa nhà này trang trí không nhiều nhưng
có cấu trúc đơn giản, hợp lý, có độ dựng thẩm mỹ được tính toán từ
những hài hòa của tỷ lệ. Tỷ lệ của chúng từ chiều cao, độ to cột, hình
dáng, đường nét đục chạm của bộ rui xà chặt chẽ đến mức không dư thừa,
và như nhiều nhà nghệ thuật nói thì không thêm, không bỏ được điều gì ở
đó.
Chùa Keo là một giá trị, những giá trị về nghệ thuật, văn hóa, về
tâm đức lòng người. Xét về mặt kiến trúc thì không thể không nhấn mạnh
tổ chức không gian các tòa nhà trong cụm kiến trúc. Thoạt nhìn có sự
giống nhau, và đồng nhất về mặt kích cỡ, nhưng thực ra lại có sự khác
nhau trong từng tỷ lệ của cấu trúc, trong sự phong phú, trong nguyên
tắc bố trí mặt bằng theo nhịp điệu thay đổi đúng mức, chỗ thì mở ra,
chỗ thu hẹp vào rồi lại mở ra, tạo độ sâu trong không gian ngôi chùa,
thu hút sự chú ý đến liên tục, gợi tạo sự phong phú của nội thất. Mặt
bằng bên trong của ngôi chùa vẫn trong khiêm tốn về kích thước. Người
Việt xưa trong những công trình kiến trúc của mình thường không ưa vẻ
đồ sộ nhưng kiến trúc không nghèo nàn, vẫn dẫn ta từ không gian này đến
không gian khác. Sự dãn cách của các công trình đã đạt được mục đích cố
tình của nghệ thuật tổ chức không gian, làm không gian trong chùa không
những có nhiều khu mà còn gợi ra khoảng không gian có nhịp điệu nhạc
tính khi thưởng ngoạn.
Chùa Keo đã tồn tại ngót 400 năm. Trong suốt thời gian ấy, chùa Keo vẫn
trọn vẹn là một tác phẩm nghệ thuật, ghi đậm một tình cảm thẩm mỹ vừa
thực, vừa huyền thoại của văn hóa Việt Nam.
Hội chính chùa Keo diễn ra từ ngày 13 - 15 tháng 9 âm lịch hàng năm. Lễ
hội chùa hàng năm còn có nhiều trò chơi dân gian và các điệu múa, điệu
hát cổ như: thi bắt vịt, thi nấu cơm, đua trải, múa ếch vồ, múa chải
cạn,…
Với người dân xung quanh chùa Keo, họ đến với danh thắng này không chỉ
ở lòng tự hào đối với một quần thể kiến trúc đẹp vào bậc nhất quốc gia,
mà còn để báo công với đức Phật sau một năm làm việc cực nhọc, cầu mong
những may mắn đến cho gia đình. Những em học sinh thường đến chùa Keo
trong mùa thi cử để tìm chốn yên tĩnh học bài, cầu mong cho mình được
thi cử đậu đạt. Vì vậy, quanh năm chùa Keo luôn nhộn nhịp du khách thăm
viếng. Chùa keo đã được xếp vào một trong 10 di tích cổ nhất Việt Nam.
Nếu có dịp về đồng bằng Bắc bộ, du khách không nên bỏ qua danh thắng có
một không hai này. Nguồn tài liệu tham khảo:
1. http://www.vietnamtourism.com/index.php/tourism/items/135
2. http://blog.dulichbui.org/2010/03/chua-keo-thai-binh.html# 5. Mối liên kết với nền địa lý
Chùa Keo nằm ở chân đê sông Hồng, giữa vùng đồng bằng không bóng núi
non, chùa Keo với Gác Chuông như một hoa sen vươn lên giữa biển lúa
xanh rờn được vun bón bởi phù sa sông Hồng do nước sông Trà Lý bồi đắp.
Từ thành phố Nam Định qua cầu Tân Đệ rẽ phải theo đê sông Hồng, đi
khoảng 10 km là đến chùa Keo. Chùa có quy mô kiến trúc rộng lớn
trên một khu đất có diện tích 58.000 m2. 6. Chỉ dẫn đường đi + Hà Nội – Thái Bình (110
km): Xe lưu thông theo hướng cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ, đi
khoảng 32 km chuyển hướng đi vào cao tốc Cầu Giẽ - Ninh
Bình --> Nút giao thông Đại Xuyên --> Nút
giao thông Liêm Tuyền --> Rẽ trái vào đường Hà Huy Tập/QL
21B/Đại lộ Thiên Trường Nam Định --> Đi tiếp qua trạm thu
phí BOT Mỹ Lộc --> Tiếp tục đi theo Đại lộ Thiên Trường
--> Qua cầu vượt Nam Định --> QL10/QL38B
--> Cầu Tân Đệ --> Đi thẳng đến đường Hùng Vương,
khoảng 800 m rẽ trái vào đường Nguyễn Trãi/TL463 --> Đi khoảng 100
m, rẽ phải vào TL463/TL220B --> Đi khoảng 6km rẽ phải vào
TL463/TL220B --> Đi thêm 3,5 km rẽ phải vào TL463/TL220B --> Đi
khoảng 1,5 km là đến di tích chùa Keo
(xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, Thái Bình).
+ Hải Dương – Thái Bình (80 km):
Xe lưu thông theo hướng đường Lê Thanh Nghị - Trường Chinh – Ngô Quyền
--> Đi theo TL 39B --> QL 38B --> TL 396B --> Qua Cầu Di
Linh --> Đi theo TL 396B đến Cầu Hiệp --> Đi theo TL 396B và TL
217 --> Đến trạm xăng rẽ phải vào QL 10 --> Qua Cầu Nguyễn -->
Đi thẳng theo QL39A/QL10 --> Cầu Hòa Bình (sông Trà Lý)
--> Đi theo QL10, sau đó rẽ trái về hướng đường Minh Tân --> Đi
khoảng 1,5 km thì rẽ phải vào đường Hùng Vương --> Đi
thêm khoảng 30m rẽ vào đường Cầu Thẫm --> Đến ngã ba rẽ phải
vào đường Nguyễn Trãi sau đó rẽ trái, đi khoảng hơn 0,6 km rẽ
trái vào TL463/Đi chùa Keo/TL220B --> Đi tiếp 5,2 km rẽ
phải vào TL463/TL220B --> Đi thêm 3,5 km rẽ phải vào
TL463/TL220B --> Đi khoảng 1,5 km là đến di tích chùa Keo (xã Duy Nhất, huyện
Vũ Thư, Thái Bình).
+ Hải Phòng – Thái Bình (100 km):
Lưu thông về hướng đường Lạch Tray – Phạm Văn Đồng/TL353--> Qua Cầu
Rào (sông Lạch Tray) --> Tiếp tục lưu thông theo đường Phạm Văn
Đồng/TL353 --> Đi qua trạm thu phí Dương Kinh --> QL 5B/ĐCT04
--> Đi theo hướng QL 10 --> Tiếp tục đi theo QL10 đến Thế giới di
động Vĩnh Bảo --> Đi theo QL37 --> Đi khoảng 230 m, rẽ phải theo
hướng QL10 qua bến xe khách Vĩnh Bảo --> Tiếp tục đi theo QL10
khoảng 37 km, rẽ trái vào đường Minh Tân --> Đi khoảng 1,5 km
thì rẽ phải vào đường Hùng Vương --> Đi thêm khoảng 30m
rẽ vào đường Cầu Thẫm --> Đến ngã ba rẽ phải vào đường Nguyễn
Trãi sau đó rẽ trái, đi khoảng hơn 0,6 km rẽ trái vào TL463/Đi
chùa Keo/TL220B --> Đi tiếp 5,2 km rẽ phải vào
TL463/TL220B --> Đi thêm 3,5 km rẽ phải vào TL463/TL220B
--> Đi khoảng 1,5 km là đến di tích chùa
Keo (xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, Thái Bình).